Tròn 110 năm kể từ ngày người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911 - 5-6-2021). Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Người mở ra đã đưa nhân dân ta từ đói khổ, lầm than, từ thân phận người dân mất nước trở thành công dân của nước Việt Nam độc lập - tự do - hạnh phúc; đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh. Kiên định con đường cách mạng đã lựa chọn, toàn Đảng, toàn dân ta, với khát vọng phát triển đất nước mãnh liệt, quyết tâm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngày 5-6-1911, từ bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc, ra đi trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville để thực hiện hoài bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc_Ảnh: Tư liệu TTXVN

Cuộc hành trình lịch sử từ bến cảng Nhà Rồng

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và từng bước thiết lập ách đô hộ lên đất nước ta. Trước tình cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến cảnh đồng bào lầm than, cơ cực, chịu sự khinh rẻ, hành hạ, bóc lột tàn bạo của thực dân, với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần dân tộc sục sôi, các phong trào đấu tranh đòi lại nền độc lập liên tục diễn ra, người trước ngã xuống, người sau lại đứng lên. Nhiều phong trào, cuộc khởi nghĩa đã để lại tiếng vang, mang đậm khí phách dân tộc, như phong trào Cần Vương với tên tuổi Tôn Thất Thuyết, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám,… Nhưng, hết thảy, cho đến cuối cùng, đều bị dìm trong biển máu và “Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam”(1). Thất bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ, dù với nhiều nguyên nhân trực tiếp khác nhau, đều bắt nguồn và phản ánh sự khủng hoảng đường lối cách mạng ở nước ta.

Bằng trí tuệ mẫn tiệp, sự tinh tường, nhạy bén và sáng suốt, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành khi đó đã nhìn ra sự bế tắc của những con đường cứu nước lúc bấy giờ. Không chỉ vậy, ngay khi mới 13 tuổi, một loạt khái niệm mới mẻ được người Pháp du nhập, như “tự do, bình đẳng, bác ái”, đã khiến Người muốn tìm hiểu điều gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy. Người đã có một sự lựa chọn đầy dũng cảm, hoàn toàn khác biệt với các bậc tiền bối, là sang Pháp, sang phương Tây, đến tận “sào huyệt” của kẻ thù cướp nước, để xem xét họ làm ra sao, rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình.

Ngày 5-6-1911, tại bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba, khi đó mới 21 tuổi, trên con tàu A-mi-ran La-tu-sơ Tơ-rê-vin (Amiral Latouche Tréville), đã khởi hành sang Pháp. Người rời xa Tổ quốc, không phải để kiếm kế sinh nhai, hay nhằm thỏa mãn một ước mơ xa lạ của tuổi trẻ, mà đi tìm con đường cứu dân, cứu nước, đi tìm những giá trị nhân văn cao cả: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Hành trang Người mang theo chỉ có đôi bàn tay lao động, trí tuệ và nhiệt huyết, cùng một trái tim yêu nước thương nòi cháy bỏng. Tất cả những điều Người mong muốn, tất cả những điều Người thấu hiểu, là “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Từ đây, bến cảng Nhà Rồng trở thành điểm khởi đầu trên con đường cách mạng của Người, nơi mở ra cuộc hành trình của ý chí, niềm tin và khát vọng kiếm tìm con đường để cứu nước, giải phóng dân tộc, cũng là cuộc hành trình hướng về những giá trị nhân văn cao cả, vì sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và dân tộc trong tương lai.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh

Để tìm tới “tự do, bình đẳng, bác ái” thực sự, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đi qua nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, chấp nhận làm rất nhiều nghề khổ cực, như đốt lò, quét tuyết, phục vụ khách sạn… Những trải nghiệm sâu sắc từ thực tiễn đã giúp Người nhận rõ rằng, trên thế giới này, nơi đâu cũng có người nghèo và đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, dù da vàng hay da đen, đều không đáng một xu; người lao động ở đâu cũng khổ cực dưới sự áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Nhiều học thuyết tiến bộ, nhiều mô hình cách mạng đã được Người tìm hiểu, song, theo Người, đó vẫn chỉ là những cuộc cách mạng “chưa đến nơi”.

Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, chỉ bởi “đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”(2). Sau đó, tháng 6-1919, thay mặt Hội Những người yêu nước Việt Nam, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” tới Hội nghị Véc-xây. Nội dung của bản yêu sách là đòi những quyền tối thiểu cho người dân bản xứ, tuy nhiên, bản yêu sách này đã không nhận được câu trả lời. Tháng 7-1920, khi được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V. I. Lê-nin, Người vô cùng cảm động và phấn khởi, bởi từ đây, Người đã tìm ra con đường để cứu dân, cứu nước. Người viết: “Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”(3). Cũng từ đây, Người trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên và sau đó, không quản ngại gian khó, từng bước truyền bá tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nước ta, làm chuyển biến về chất phong trào cách mạng trong nước, mà biểu hiện tập trung nhất, chính là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930).

Sự lựa chọn con đường cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, một lần nữa cho chúng ta thấy tư duy độc lập, sáng tạo, trí tuệ trác việt của Người. Lúc này, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không còn quá xa lạ, nhất là sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại thành công, nước Nga Xô-viết ra đời,… Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, Người đã sớm nhận thức được quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài người, thấy được bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn và nhân đạo cao cả của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa cuộc cách mạng vô sản trên thế giới và cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Con đường mà Người lựa chọn, chẳng những giải quyết được sự bế tắc của đường lối giải phóng dân tộc mà quan trọng hơn là, đã đặt nền móng lý luận cho con đường cách mạng Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam. Từ đây, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc được vận hành theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về hai kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ ra khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước vừa đang ở trình độ phát triển thấp, vừa chưa có độc lập, chủ quyền; từ đó, mở ra cơ hội cho các dân tộc lạc hậu và thuộc địa đến với chủ nghĩa xã hội. Đây là đóng góp quan trọng của Người về mặt lý luận và thực tiễn cho sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu trong mối quan hệ mật thiết với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Mục tiêu giải phóng dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề vật chất và tinh thần cho việc thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Ngược lại, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ tạo môi trường, điều kiện hiện thực để bảo vệ độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Quá trình này phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, trên cơ sở liên minh công - nông và đặc biệt, phải phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bởi theo Người, ở Việt Nam, tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc là truyền thống vô cùng quý giá, là động lực to lớn trong bảo vệ và xây dựng đất nước: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(4). Con đường cách mạng Việt Nam xuyên suốt trong tư tưởng của Người, không thể khác, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Với việc lựa chọn và xác lập con đường cho cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ tập hợp mọi dòng chảy của phong trào yêu nước và cách mạng trong nước, mà còn kết nối cách mạng trong nước với dòng chảy của cách mạng vô sản thế giới. Từ đây, mọi giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân yêu nước đã nhất tề đứng lên, “muôn người một dạ” đi theo lãnh tụ, theo Đảng, hướng đến mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam được Người sáng lập, giáo dục và rèn luyện, kể từ khi ra đời, luôn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng, thực sự “là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng... đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”(5).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam nhanh chóng chuyển từ đấu tranh bị động, tự phát sang đấu tranh chủ động, tự giác, với nhiều cao trào cách mạng, như cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh, cao trào dân chủ 1936 - 1939, cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về nước, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của lực lượng ủng hộ phe Đồng minh, chống phát-xít.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay sau khi nước nhà được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phải làm sao để nhân dân ta được hưởng tự do, hạnh phúc, bởi theo Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(6). “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(7).

Tại Đại hội II (năm 1951), trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, Đảng ta xác định, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”(8). Đây được coi là đại hội đẩy mạnh kháng chiến thắng lợi, góp phần làm nên một “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Sau đó, trước âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ và vô cùng gian khổ nhằm bảo vệ độc lập dân tộc.

Đảng Lao động họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà”, ngày 5-9-1960_Ảnh: hochiminh.vn

Đến Đại hội III của Đảng (năm 1960), trong bối cảnh miền Bắc đã được giải phóng nhưng miền Nam còn đang tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta lãnh đạo triển khai đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc: “Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”(9).

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, mặc dù “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy”(10), song, mỗi nước tùy vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình, sẽ có những cách thức, bước đi riêng và “phát triển theo con đường khác nhau”. Do đó, một mặt, phải kiên định mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người; mặt khác, phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước, dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Người chỉ rõ: “Hiện nay đứng về mặt xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta. Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”(11). Ngược lại, Người cho rằng, “nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”(12). Bởi vậy, bản thân những người làm cách mạng hay xây dựng đất nước không được phép duy tâm, ảo tưởng, lấy lý tưởng thay cho hiện thực, bắt hiện thực phải khuôn theo lý tưởng, mà phải dựa vào những tiền đề khách quan để xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới một cách hiện thực, thực tiễn(13).

Về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc. Bởi vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng trường kỳ, “một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”(14). Người cho rằng, đặc điểm lớn nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, vì vậy, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(15).

Về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà chúng ta sẽ xây dựng. Theo Người, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”(16). Về kinh tế, đó phải là một xã hội có nền kinh tế phát triển, có “công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”(17).

Năm 1953, khi viết tác phẩm “Thường thức chính trị” trong bối cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vẫn phát triển theo mô hình Xô-viết với duy nhất một thành phần kinh tế, vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I. Lê-nin trong tác phẩm “Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính tiểu tư sản”, Người đưa ra chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần khi chỉ rõ, “Hiện nay, kinh tế nước ta có những thành phần như sau: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội… Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội… Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ… Kinh tế tư bản của tư nhân… Kinh tế tư bản quốc gia(18). Theo Người, “Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều: 1. Công tư đều lợi… 2. Chủ thợ đều lợi”. Người giải thích rõ: “Kinh tế quốc doanh là công…  là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân”(19).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các cử tri Khu vực bỏ phiếu số 4, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải là một xã hội bảo đảm tự do không chỉ cho mỗi con người, mà còn cho cả dân tộc, bởi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là một xã hội thực sự dân chủ, nơi mà “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân(20). Lý luận và thực tiễn về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng được Người làm rõ, trong đó nhân dân ở vị trí trung tâm, là đối tượng thụ hưởng mọi lợi ích, cũng là chủ thể của mọi quyền lực, chủ thể của sự nghiệp đổi mới, dựng xây, kháng chiến và kiến quốc. Ngoài ra, xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng phải có sự “công bằng hợp lý”, trong đó, tính hợp lý thể hiện ở việc phân phối theo tinh thần “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(21). Từ đây, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần có Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo và quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật. Đặc biệt, đó phải là Nhà nước từ nhân dân mà ra, do nhân dân tin tưởng mà gây dựng nên, vì nhân dân mà phụng sự, là công bộc, đày tớ của nhân dân, “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền”(22).

Cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, điều đau đáu, trăn trở và cũng là điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(23). Người mong đến ngày đất nước sạch bóng quân xâm lược, Bắc - Nam sum họp một nhà, dân tộc ta được hưởng tự do, độc lập, Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân tiến lên xây dựng một xã hội dân chủ, để người dân được ấm no, hạnh phúc, đất nước được phồn vinh, giàu mạnh và vẻ vang “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”. Tấm lòng bao la của Người, những lời căn dặn thấm đẫm tinh thần nhân văn sâu sắc mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, đã trở thành khát vọng, động lực to lớn và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Với việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, Đảng ta cùng toàn thể nhân dân đã tiến hành công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện, đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, mở ra trang mới trong lịch sử phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới của Đảng

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Nhân cơ hội này, các thế lực thù địch ra sức chống phá, tìm mọi cách hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.

Đại hội VI của Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”(24). Đứng trước muôn vàn khó khăn, toàn Đảng, toàn dân ta vẫn kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”. Ý chí và nguyện vọng này được Đảng ta tiếp tục khẳng định qua các kỳ đại hội.

Để công cuộc đổi mới giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công, điều kiện cốt yếu là Đảng ta phải kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò và nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Văn kiện Đại hội IX của Đảng ghi nhận, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiệu cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa vǎn hóa của nhân loại, “soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(25).

Qua các kỳ đại hội, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng rõ hơn, dần hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Đến Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục bổ sung các đặc trưng đó và khẳng định, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là Đại hội đánh dấu sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của đất nước từ chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, gắn đổi mới mô hình tăng trưởng với cơ cấu lại nền kinh tế.

Tại Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”(26). Đồng thời, Đảng ta chỉ ra 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, làm rõ nội dung về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng, với những đặc trưng cơ bản là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(27).

Đất nước phát triển mạnh mẽ sau 35 năm đổi mới (Trong ảnh: Bến Nhà Rồng, Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay - từ đây năm xưa Người đã ra đi tìm đường cứu nước)_Ảnh: Zing.vn

Đến nay, qua 35 năm đổi mới, “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(28). Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được, tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

Hiện nay, tình hình thế giới có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng… Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Đối với Việt Nam, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, xu hướng già hóa dân số, biến đổi khí hậu, thiên tai..., đặc biệt là bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước với những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”(29). Đồng thời, “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(30).

Với những bước đi đúng đắn, hợp quy luật phát triển, hợp lòng dân, cùng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng vươn lên mãnh liệt và ý chí, quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân ta sẽ lập nên những thành tựu phát triển mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, tiến bước vững chắc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta./.

-------------------------

(1), (3), (9), (15), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 30, 562, 673, 412, 372
(2) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016t. 1, tr. 47
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 1, tr. 511
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 16
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 64, 175
(8) Văn kiện Đảng toàn tậpSđd, t. 12, tr. 434
(10), (18), (19), (22) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8, tr. 293, 266, 267, 263
(11), (12), (14), (21) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 11, tr. 97, 97 - 98, 91 - 92, 404
(13) Xem: Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2003, tr. 136
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 390
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 624
(24) Văn kiện Đảng toàn tậpSđd, t. 47, tr. 371
(25) Văn kiện Đảng toàn tậpSđd, t. 60, tr. 179
(26) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 68
(27) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(28), (29), (30) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25, 109, 57