GS.TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội, trả lời VnExpress về quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ mới được công bố.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ thay thế cho quy chế ban hành năm 2017. Ông đánh giá thế nào về văn bản mới này?
- Văn bản này, theo tôi, chưa phải là một quy chế mới, bởi phần nhiều vẫn giữ nội dung trong quy chế ngày 4/4/2017 cùng Thông tư 08/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhưng nó đã chỉnh sửa, bổ sung một số điểm mới quan trọng, hướng tới thực chất của hoạt động nghiên cứu trong quá trình đào tạo tiến sĩ.
Có thực tế là sau khi quy chế năm 2017 được ban hành với quy định cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh phải có công bố quốc tế nằm trong danh mục ISI/SCOPUS, hầu hết cơ sở đào tạo tiến sĩ lâm vào tình trạng khó khăn, có ngành không có nghiên cứu sinh nào ứng thí. Thoạt nhìn thì dễ đi tới nhận xét các cơ sở đào tạo của ta kém quá, không đáp ứng được trình độ quốc tế. Đưa ra quy định này để nâng chất lượng đào tạo tiến sĩ, từng bước hội nhập với thế giới.
Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy. Có nhiều cách phân loại khoa học, để nói về tính quốc tế ở mức độ cao chỉ có một số lĩnh vực mà điển hình là Toán và sau đó là Lý, Hóa... Rất nhiều lĩnh vực khoa học còn lại mang tính khu vực. Ngay cả trong khoa học tự nhiên như Sinh, Địa, đối tượng và kết quả nghiên cứu cũng phụ thuộc vào những khu vực cụ thể.
Khoa học xã hội và nhân văn là lĩnh vực không thể thoát ly khỏi hoạt động của con người trong một không gian nhất định, phụ thuộc rất nhiều đặc điểm văn hóa, xã hội, chính trị của từng quốc gia, dân tộc mà trước hết và chủ yếu phải phục vụ đường lối, chính sách và sự phát triển của quốc gia dân tộc mình. Vì vậy, việc buộc những nhà nghiên cứu, nghiên cứu sinh trong các lĩnh vực này đưa kết quả nghiên cứu ra nước ngoài công bố cần xem xét lại.
Các công trình trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của ta chủ yếu viết về Việt Nam. Để đăng, thường phải chen vào các tạp chí viết chung về Đông Nam Á (có hơn chục nước) hoặc châu Á (có gần 60 nước) nên mỗi năm số bài về Việt Nam được chấp nhận đăng là rất ít. Mặt khác, không dễ gì các tạp chí trong danh mục ISI/SCOPUS của các nước phương Tây chấp nhận quan điểm, cách tiếp cận dựa trên học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các học giả Việt Nam, nên cửa đăng bài về Việt Nam càng hẹp hơn.
Trong tình hình như vậy, tôi đánh giá rất cao những điều chỉnh mới trong quy chế đào tạo tiến sĩ, hướng tới thực chất của hoạt động nghiên cứu khoa học. Tôi hiểu việc quy chế quy định các bài công bố tại các tạp chí trong nước theo tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng Giáo sư Nhà nước đạt từ 0,75 điểm trở lên, cho phép thay thế công bố nghiên cứu khoa học bằng những kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đã đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế quốc gia hoặc quốc tế; hoặc giải thưởng chính thức của cuộc thi quốc gia hoặc quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật và nhóm ngành thể dục, thể thao... vừa phản ánh đúng thực tế, vừa tạo động lực để các tạp chí trong nước không ngừng nâng cao chất lượng. Bộ đã đặt lòng tin vào đánh giá của các nhà khoa học trong nước, trước hết là các chuyên gia của Hội đồng Giáo sư Nhà nước.
- Những lý do nào khiến việc điều chỉnh quy chế trở nên cấp bách, thưa ông?
- Quy chế cũ lấy tiêu chí bài báo được đăng trong hệ thống ISI/Scopus như là điều kiện tiên quyết, bắt buộc, với mong muốn nhanh chóng quốc tế hóa hoạt động đào tạo tiến sĩ của Việt Nam. Nhưng có lẽ khi đó chúng ta chưa lường tính được hết. Ở đây, tôi chỉ nói đến những lĩnh vực mà tôi có hiểu biết.
Thứ nhất, ISI/Scopus chỉ là cách phân loại, không tuyệt đối đúng với tất cả lĩnh vực khoa học. Như trên đã nói, nếu chúng ta tuyệt đối hóa, coi đây là chuẩn mực quốc tế duy nhất để đánh giá chất lượng công trình thì chẳng những mục tiêu đề ra không đạt được mà còn dẫn đến tình trạng nghiên cứu sinh tìm mọi cách "lách" để có bài đăng trên tạp chí quốc tế một cách không thực chất. Trong vài năm trở lại đây, bắt đầu xuất hiện những bài về khoa học xã hội và nhân văn của tác giả Việt Nam trên một tạp chí nằm trong danh mục ISI/SCOPUS của một số nước Đông Âu. Nói một cách thẳng thắn, những bài viết như vậy khó có thể đăng được trên tạp chí chuyên ngành ở Việt Nam.
Hiện tượng này khá phổ biến (thường thấy ở một số trường đại học nhỏ ở địa phương), tác giả tìm đến những tạp chí ISI/SCOPUS nhưng ít được biết đến, chỉ cần đáp ứng yêu cầu nộp 1.000-2.000 USD và được chấp nhận in rất nhanh. Nhiều khi tạp chí chẳng liên quan gì đến chuyên môn, chẳng hạn Nghiên cứu Lâm nghiệp (Forestry studies) nhận đăng bài về lịch sử Việt Nam. Tệ hơn là bắt đầu hình thành một số trung tâm viết bài quốc tế thuê mà thực chất là được ghép tên vào một tập thể nào đó sau khi phải trả một khoản phí.
Đấy là chưa kể những trung tâm dịch vụ đăng bài quốc tế, nếu không cẩn thận sẽ đẩy đến tình trạng thương mại hóa. Nhiều cơ sở đào tạo bỏ tiền ra thưởng cho bài quốc tế (kể cả dạng thuê viết này) khoản tiền nhiều hơn chi phí nộp cho trung tâm viết thuê, có những quỹ khoa học cấp kinh phí nhiều trăm triệu đồng chỉ cần sản phẩm có 1-2 bài báo quốc tế. Rõ ràng những sản phẩm kiểu này không thực chất, không nâng cao chất lượng nghiên cứu mà còn hao phí nguồn lực theo kiểu "gánh vàng đi đổ sông Ngô".
Thứ hai, không phải tạp chí nào cũng phù hợp với lĩnh vực chuyên môn nói chung, cũng không phải tạp chí nào cũng góp phần phát triển khoa học Việt Nam. Nếu không cẩn thận và duy ngoại thì các tác giả tìm mọi cách đưa ra nước ngoài các bài báo tốt nhất. Khi đó, các tạp chí trong nước sẽ không phát triển được. Đấy là chưa kể nếu cứ tiếp tục tình trạng này thì khoa học Việt Nam sẽ rơi vào bế tắc trong tư tưởng sùng bái nước ngoài.
Về khoa học xã hội và nhân văn, trong nước có rất nhiều tạp chí tốt đang rất cần nguồn lực (bài có chất lượng và đầu tư kinh phí) để phát triển, nhưng xu thế hướng ngoại tràn lan đã khiến việc này dần trở nên khó thực hiện.
Ở phương diện khác, chúng ta không chú ý những công bố bất lợi cho hình ảnh Việt Nam đang ngày càng gia tăng trên tạp chí ngước ngoài như vấn đề ô nhiễm môi trường, các vấn nạn xã hội, hay tiêu cực trong kinh tế - xã hội. Những bài viết rất khách quan, số liệu và phân tích rất khoa học, nhưng chúng ta thử hình dung hình ảnh Việt Nam trong mắt thế giới sẽ như thế nào khi công bố khoa học quốc tế chỉ xoay quanh những chủ đề như vậy mà hầu như rất ít nói về điểm sáng, thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị ở Việt Nam.
- Nhiều người ủng hộ việc chấp nhận các bài công bố tại tạp chí uy tín trong nước, nhưng cho rằng mỗi nghiên cứu sinh nên có tối thiểu một bài tạp chí/hội thảo quốc tế. Ông nghĩ sao về ý kiến này?
- Trước hết, tôi đề nghị bỏ chữ "chấp nhận". Tư duy "chấp nhận" các bài công bố trên tạp chí trong nước thể hiện tâm lý mặc cảm tự ti, mặc nhiên coi tất cả bài được đăng trên các tạp chí trong danh mục ISI/SCOPUS là ở đẳng cấp cao hơn bài đăng trong nước. Điều này không đúng cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn nên cần căn chỉnh lại. Chúng ta phải có sự tự tin với nền khoa học của Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Hội đồng Giáo sư Nhà nước đã có quy định về tạp chí, ấn phẩm được tính điểm công trình. Theo tôi, quy định mới trong quy chế được chỉnh sửa về điều kiện của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh là phù hợp.
Sau khi quy chế này ban hành, tôi tin những hiện tượng tiêu cực như thuê viết bài, trả tiền để được đăng bài quốc tế là nỗi đau cho các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, mà nhìn xa ra là giới khoa học trong nước, sẽ biến mất. Phải loại ngay những công bố không thực chất, chấm dứt vấn nạn "gánh vàng đi đổ sông Ngô" về những bài báo công bố quốc tế không phục vụ gì nhiều cho Việt Nam, lãng phí nguồn lực quốc gia.
Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm điều chỉnh của quy chế. Định hướng này là bước đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng ta cần những quy định điều tiết sự phát triển của khoa học đất nước, trong đó có việc các tạp chí của chúng ta phải nâng cao chất lượng, đồng thời hội nhập quốc tế theo cách của mình.