Bài 1: Khi “kim chỉ nam” bị cất trong tủ kính
LTS: Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là:
Tăng cường kiểm tra, giám sát để Đảng thêm vững mạnh
“Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị (LLCT); lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Trước bối cảnh thời cuộc, nhiệm vụ thời kỳ mới, đòi hỏi cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) cần xác định thái độ, động cơ đúng đắn để việc học tập LLCT trở thành nhu cầu thiết thân.
Tình trạng lười học LLCT diễn ra ở không ít CB, ĐV, trong chính một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Có những người coi thường lý luận, cho đó là lý thuyết suông, là giáo điều, rằng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn sức sống. Họ đã hiểu được gì từ lý luận?
Cách giải thích ngụy biện
Chúng tôi đã làm một trắc nghiệm nhỏ dành cho một số đảng viên, đó là trả lời câu hỏi: “Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là gì?”. Khá bất ngờ khi nhiều đảng viên không trả lời đúng câu hỏi này. Thậm chí, một số đảng viên "không có khái niệm" thế nào là nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng... Một trong những nhiệm vụ quan trọng của đảng viên là: “Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng...”. Với vai trò cốt yếu đã được xác định, vậy nhưng chính một số đảng viên lại không hiểu, không rõ về nền tảng tư tưởng của Đảng thì họ sẽ bảo vệ Đảng ra sao? Đảng viên lãnh đạo quần chúng thực hiện xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản bằng cách nào? Phải chăng họ chỉ lãnh đạo bằng mệnh lệnh mà thiếu hẳn sự thuyết phục; bằng chủ nghĩa kinh nghiệm mà không có đường lối, không có mục tiêu, lý tưởng? Thực trạng này có chung một nguyên nhân, đó là do CB, ĐV lười học LLCT, lười học Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng, lười đọc sách lý luận, lười đọc báo Đảng...
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Ảnh: TTXVN. |
Nhiều người đổ lỗi cho khách quan, rằng nhiều việc chuyên môn, do các mối quan hệ chi phối khiến họ không có thời gian cho việc học LLCT. Sự giải thích đó không thuyết phục. Việc học LLCT nếu là nhu cầu tự thân thì có thể học, tìm hiểu mọi lúc, mọi nơi, tận dụng những khoảng thời gian trong chính công việc chuyên môn của mình. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, chính Các Mác, Lênin, Hồ Chí Minh, các nhà cách mạng Việt Nam đã tận dụng mọi cơ hội, dù trong tù ngục hay ở những thời khắc "ngàn cân treo sợi tóc", bị các thế lực truy lùng bắt bớ, những lúc công việc bộn bề, họ vẫn dành thời gian để học tập, nghiên cứu, phát triển và vận dụng lý luận vào thực tiễn đấu tranh cách mạng. Thậm chí trước họng súng kẻ thù, những chiến sĩ cách mạng kiên trung vẫn nhìn thấy "mặt trời chân lý", vẫn tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng chủ nghĩa xã hội, cách mạng sẽ thành công bởi hành trang lý luận họ được học, được trang bị. Và cuối cùng, họ đã đúng. Cách mạng đã thành công. Bởi thế, nếu ai đó giải thích vì công việc chuyên môn khiến họ không có thời gian học LLCT thì chỉ là một sự ngụy biện.
Tình trạng một số CB, ĐV nhận thức chưa đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của học tập LLCT đang là một thực tế. Trong khi lười học lý luận nhưng một số người lại rất cơ hội, quá khích khi tiếp cận các thông tin được coi là độc, lạ trên mạng xã hội. Và do không có thế giới quan, phương pháp luận khoa học nên một số người dễ nhìn nhận vấn đề sai lệch, dễ bị sa vào bẫy “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch chống phá chế độ cài vào. Có kẻ đã hùa theo việc "quay xe" công kích hệ tư tưởng Mác-Lênin, cho rằng đó là một viễn cảnh không có hồi kết. Cũng có người đã lợi dụng vị trí của mình trong công tác tuyên truyền, phổ biến LLCT để phê phán, tỏ thái độ bất mãn, chê bai lý luận, chê bai xã hội, chê bai chế độ trong khi mình là người đang ăn cơm, mặc áo của chế độ. Một số CB, ĐV phát ngôn văng mạng trên internet, không chỉ vi phạm những điều đảng viên không được làm mà còn vi phạm pháp luật. Hiện tượng mà Đảng đã cảnh báo, đó là chủ nghĩa cơ hội đang xuất hiện. Những người này bề ngoài thì nói theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng thực chất là lợi dụng để chui sâu, leo cao vào Đảng để thăng quan tiến chức, để trục lợi.
Chính do thiếu kiến thức lý luận mà một số CB, ĐV có biểu hiện coi thường LLCT. Bởi thế, ngay cả khi được cử đi đào tạo thì cũng có người chỉ học đối phó, miễn cưỡng, "đánh trống ghi tên" cho đủ tiêu chí để được đề bạt, bổ nhiệm. Hiện tượng CB, ĐV học không đi đôi với hành, học lý luận nhưng không áp dụng vào thực tiễn, không vận dụng kiến thức được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo không hiếm.
Ngày 5-5 cũng là ngày sinh của Các Mác. Trong cuộc đời mình, ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng tri thức lý luận đồ sộ và phong phú trên nhiều lĩnh vực. Dù ra đời từ thế kỷ 19, những tác phẩm lý luận của Mác đến nay vẫn là những cuốn sách gối đầu giường của các đảng viên các đảng cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa và vẫn luôn khẳng định ảnh hưởng to lớn trong lòng xã hội tư bản, điển hình là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” và bộ "Tư bản” do Mác lao tâm khổ tứ để viết nên.
Gốc có vững, cây mới bền
Có nhiều lăng kính để lý giải về tình trạng lười học, ngại học LLCT của CB, ĐV. Nguyên nhân từ phía người học chưa có nhận thức, động cơ đúng dẫn đến ngại học, học đối phó; từ phía một bộ phận người truyền thụ (người dạy) chưa thực sự nhiệt huyết, phương pháp còn khô cứng, đơn điệu; chương trình học tập LLCT còn một số bất cập... Trong khi đó, tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả cũng ảnh hưởng đến thái độ, động cơ của người học.
Nhìn nhận từ góc độ chủ quan của chính CB, ĐV cho thấy, sự mất gốc, hổng kiến thức LLCT ngay từ nền tảng ban đầu là một trong những nguyên nhân khiến CB, ĐV nhận thức chưa đúng về việc học tập LLCT. Theo một trình tự logic, đảng viên phải bắt đầu được bồi dưỡng LLCT từ khi là đoàn viên, là sinh viên chứ không chờ đến lúc là đảng viên mới bồi dưỡng. Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị của Đảng. Bởi thế, việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, lòng yêu nước, nuôi hoài bão, khát vọng... phải được quan tâm từ sớm. Trong khi thực tế nhiều tổ chức đoàn chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này. Qua khảo sát của nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân (Đức Tuấn-Huyền Trang) đầu năm 2022: Ở nhiều cơ sở đoàn, thanh niên cứ đến tuổi là được cho đi học lớp tìm hiểu về Đoàn Thanh niên ít buổi, sau đó được yêu cầu viết bài thu hoạch mang tính hình thức và tiến hành kết nạp. Trong khi đó, hình thức đào tạo khô khan, cứng nhắc, nội dung học tập chỉ dừng ở việc nêu định nghĩa tổ chức đoàn mà thiếu đi cơ sở thực tiễn nên không cuốn hút, không giúp thanh niên nắm được những vấn đề cơ bản như mục tiêu, lý tưởng, trách nhiệm khi tham gia tổ chức đoàn. Thậm chí khi được hỏi, một đoàn viên ở Bắc Ninh cho biết: “Tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên đã 5 năm. Lúc đó, tôi học lớp 9 hay lớp 10 gì đó. Vì không còn ai nên tôi được huy động vào Đoàn”. Nhiều bạn trẻ khi được hỏi, họ không hiểu mục tiêu, lý tưởng vào Đoàn để làm gì. Cho nên khi trở thành đảng viên, họ đã bước đầu hổng kiến thức lý luận.
Ở bậc đại học, độ tuổi được đánh giá là quan trọng nhất, ngấm, thấm nhất những kiến thức được trang bị của người học, những chương trình đào tạo trong nước đều đã đưa vào các môn LLCT nhằm đặt nền móng cho việc xây dựng lập trường, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng cho sinh viên, đoàn viên, thanh niên. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, có cả việc chưa coi trọng các môn lý luận nên chương trình đào tạo dành cho các môn lý luận Mác-Lênin như: Triết học, Kinh tế-chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều sự thay đổi, cắt xén nội dung, chương trình, lý luận bị mất tính logic, trở nên khô cứng, khiến sinh viên không hứng thú và có tư tưởng coi nhẹ việc học các môn này. Hậu quả là họ hổng kiến thức, thậm chí mất gốc dẫn tới ngại học, lười học. Tháng 12-2021, nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân (Hoàng Hoàng-Thu Hà) đã tiến hành khảo sát với 3.020 sinh viên trên cả nước. Trả lời câu hỏi về lợi ích của các môn LLCT, hầu hết sinh viên sau khi học xong đều thể hiện nhận thức tích cực về lợi ích của các môn học đối với bản thân. Song, nghịch lý là khi được hỏi về mức độ yêu thích với từng môn học cụ thể, câu trả lời “Bình thường” chiếm tỷ lệ hơn 50%. Điều này cũng đặt ra vấn đề rất đáng suy nghĩ về thái độ, động cơ học tập LLCT của người học và phương pháp truyền thụ của người dạy.
Đất nước mở cửa, hội nhập mạnh mẽ. Tuy vậy, sự tác động của kinh tế thị trường, lối sống tư bản, quá đề cao lợi ích vật chất, hưởng thụ khiến nhiều CB, ĐV không còn quan tâm đến yếu tố chính trị tinh thần, lợi ích cộng đồng, giá trị tốt đẹp trong xã hội. Một số CB, ĐV xa lạ với mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, xóa nhòa vấn đề giai cấp, dân tộc. Có những đảng viên không quan tâm đến đời sống chính trị của đất nước, dẫn tới không quan tâm đến việc học tập, nâng cao trình độ LLCT. Họ chỉ coi đó là tiêu chí bổ sung, hợp thức để được thăng tiến. Nhận thức như vậy khiến CB, ĐV trở nên bàng quan, thờ ơ với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; không quan tâm đến phát triển, bổ sung, tổng kết lý luận, vận dụng lý luận vào thực tiễn như bản chất của lý luận đã chỉ ra.
Trong khảo sát tổng hợp những cuốn sách, tài liệu mà sinh viên Mỹ bắt buộc phải đọc trong hơn một triệu bài giảng năm 2016, "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" của Các Mác đã bỏ xa các cuốn sách phía sau để trở thành tài liệu được giáo viên Mỹ giảng dạy rộng rãi nhất, cả về số bài giảng lẫn tần suất được giảng dạy. "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" được sử dụng làm tài liệu giảng dạy về lý thuyết xã hội, trong khi về chuyên ngành kinh tế, bộ "Tư bản” của Mác phân tích về sự vận hành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng luôn được đưa vào giảng dạy. |
----------------------
Bài 2: Hệ lụy khôn lường từ tình trạng lười học lý luận chính trị
Khi đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị sẽ dẫn đến hàng loạt hệ lụy đối với đảng cầm quyền. Bởi thế, việc học tập, trang bị lý luận chính trị (LLCT), trau dồi Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm chắc nghị quyết của Đảng có vai trò rất quan trọng.
Nó giúp chính cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) có thế giới quan, phương pháp luận khoa học, biết dấn thân để tìm ra giải pháp tối ưu trong công việc; có bản lĩnh vững vàng để vượt qua khó khăn, những cám dỗ vật chất trong cuộc sống.
Không có lý luận như nhắm mắt mà đi
Đảng ta là đảng lãnh đạo, cầm quyền. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể”. Hay: Lãnh đạo là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội nhằm tối đa hóa nỗ lực của người khác để đạt được mục tiêu. Tựu trung, người lãnh đạo phải là người dẫn đường, người mở đường. Đảng ta cũng không có mục đích nào khác là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Mục đích đó cũng là bản chất, là đặc trưng của chế độ được xây dựng trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng cũng được xây dựng trên nền tảng lý luận đó vận dụng vào thực tiễn của đất nước. Điều đương nhiên, nếu CB, ĐV không nắm được LLCT, không hiểu biết về nền tảng tư tưởng ấy thì họ không thể lãnh đạo được ai. Việc lười học LLCT có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, đó là đảng viên mất phương hướng, rất dễ rơi vào tình trạng thực hiện sai đường lối của Đảng; nói và viết không đúng nghị quyết của Đảng, vi phạm nguyên tắc Đảng; dễ bị kẻ thù lôi kéo, mua chuộc. Một hậu quả nữa của tình trạng “mù lý luận” đó là làm bừa, làm ẩu, bất chấp quy luật khách quan dẫn đến thất bại.
Vì không học LLCT, không hiểu nền tảng tư tưởng của Đảng nên chính đảng viên cũng không có khả năng bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Trong một tập thể, nếu các đảng viên nắm chắc lý luận, hiểu nguyên lý, nguyên tắc của Đảng thì người đứng đầu rất khó có thể làm sai, khó có thể tự tung tự tác, hành động vô nguyên tắc. Hàng loạt CB, ĐV bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ủy ban kiểm tra các cấp xử lý kỷ luật thời gian qua đã chỉ ra nguyên nhân, đó là tình trạng thực hiện không đúng nghị quyết của tổ chức đảng, vi phạm nguyên tắc Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây thực sự là vấn đề lớn của Đảng.
Ở một khía cạnh khác, mục tiêu xuyên suốt mà các thế lực thù địch, phản động đang thực hiện là nhằm xóa bỏ chế độ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để làm điều đó, chúng không loại trừ bất kỳ thủ đoạn nào nhằm tấn công, xuyên tạc, bịa đặt hòng làm sụp đổ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng muốn làm cho hệ tư tưởng ấy trở nên giáo điều, xa lạ, không còn sức sống. Trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng ấy, vũ khí của những người cộng sản chính là LLCT sắc bén. Nếu mỗi CB, ĐV, những người được xem là đầu tàu để bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng lại lười học LLCT thì làm sao có thể bảo vệ được? Không có kiến thức, không có bản lĩnh thì không thể giữ vững được trận địa tư tưởng, thành quả cách mạng, những giá trị cốt lõi của văn hóa Đảng. Dù có trung thành bao nhiêu nhưng không hiểu bản chất, không có lý luận soi đường thì cũng chỉ như một người đi trong đêm tối. Sự lầm đường lạc lối trong lãnh đạo không khác gì sự phá hoại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”; “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”. Cách mạng luôn vận động biến đổi không ngừng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc còn nhiều thử thách, cam go. Nếu không có lý luận, nếu lý luận không trở thành lực lượng vật chất thấm sâu trong mỗi CB, ĐV thì sự nghiệp ấy khó có thể thành công. PGS, TS Trần Đình Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, luận giải: Nền tảng tư tưởng chính là phương tiện, là ánh sáng, là trí tuệ soi đường cho Đảng lãnh đạo đưa đất nước đi lên.
Các đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh: TTXVN |
Sức sống trường tồn của lý luận mác-xít
Lịch sử hơn 100 năm từ khi đất nước chìm trong bóng đêm nô lệ đến nay đã hoàn toàn đủ cơ sở cả về lý luận và thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn, tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn và sự trường tồn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ách đô hộ của thực dân, đế quốc, dân tộc ta khi đó không thiếu những anh hùng, không thiếu những cuộc khởi nghĩa, phong trào cách mạng với mong muốn giải phóng dân tộc. Nhưng tựu trung, tất cả đều thất bại vì không có đường lối đúng, không có lý luận dẫn đường. Chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh tiếp cận, thấy được ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu, có được hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa vào cách mạng Việt Nam, với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo dân tộc thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Nhưng đó là một hành trình tiếp thu lý luận, đưa lý luận vào thực tiễn không hề đơn giản, không hề có sẵn. Người chiến sĩ cách mạng vĩ đại Nguyễn Ái Quốc đã phải nếm mật nằm gai, tắm mình trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, tận mắt chứng kiến những đọa đầy đau khổ nhất của kiếp cần lao, tiếp cận được với ánh sáng chân trời từ Chủ nghĩa Mác-Lênin mới đưa lại sự thành công đó. Chính Mác, Ăngghen, Lênin, những chiến sĩ cộng sản của phong trào công nhân quốc tế đã phải lăn lộn, chịu biết bao khổ cực trong phong trào công nhân, trong thảm cảnh bị đàn áp, bóc lột đến tận xương, tận tủy mới đúc rút được hệ tư tưởng lý luận có ý nghĩa vạch thời đại ấy. Nó hoàn toàn không là lý thuyết sách vở, kinh viện mà thấm đẫm hiện thực. Và luận giải như Các Mác, lý luận ấy đã biến thành lực lượng vật chất chứ không chỉ là lý luận đơn thuần. Mác đã rút ra rằng: "Lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng một khi lý luận đã được thấm sâu vào quần chúng thì nó sẽ trở thành lực lượng vật chất vô địch".
Chỉ những người không hiểu biết thấu đáo mới tìm cách đổ lỗi, cho rằng hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là do Chủ nghĩa Mác-Lênin sai lầm, là không phù hợp, rồi vin vào đó để cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Thực tế không phải như vậy. Chính điều này đã chứng minh, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản, đảng viên ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã coi thường lý luận Mác-Lênin, tiếp thu giáo điều, nửa vời, xa rời những nguyên tắc căn bản của lý luận Mác-Lênin, nhất là những nguyên tắc lịch sử-cụ thể, nguyên tắc thực tiễn và sự thiếu thích ứng với những thay đổi thường xuyên của đời sống chính trị-xã hội đã dẫn đến sự sụp đổ đau đớn đó. Những lãnh đạo, đảng viên làm băng hoại một chế độ tốt đẹp ấy sẽ luôn bị lịch sử điểm tên. Một mô hình nhà nước cụ thể không toàn vẹn do áp dụng không đúng lý luận mác-xít về nhà nước, về xây dựng chế độ, về đảng cầm quyền chứ không phải là sự sai lầm của một học thuyết khoa học, không phải sai lầm của lý luận mác-xít. Cũng chính sự kiện đó đã là lời cảnh tỉnh xương máu cho tất cả chúng ta. Những CB, ĐV hôm nay trong sự nghiệp bảo vệ thành trì XHCN nếu coi thường, xa rời bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nếu vận dụng nó một cách máy móc, nếu không chịu tìm tòi, nghiên cứu, đúc rút, tổng kết và phát triển hệ lý luận ấy cho phù hợp với sự vận động không ngừng của thực tiễn thì rất dễ dẫn đến phải trả giá bằng sự thất bại. Cho đến hôm nay, các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân-yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Những CB, ĐV chân chính, những người dân đã được hưởng thành quả, điều tốt đẹp của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu vẫn luôn tiếc nuối, hoài niệm về một xã hội tốt đẹp, thực sự vì con người. Họ đã cảm nhận rõ hơn ai hết những giá trị nhân văn về quyền con người, về sự đáp ứng các nhu cầu chính đáng cả vật chất, tinh thần mà chế độ XHCN mang lại. Sức sống của lý luận mác-xít vẫn đang chứng minh tính cách mạng và khoa học, tính thời đại và tương lai ở các nước XHCN đang theo hệ lý luận, tư tưởng ấy. Đó là các nước như: Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... PGS, TS Trần Đình Huỳnh cho rằng, phải luôn luôn bảo vệ “đầu não” và “trái tim” của Đảng theo tư tưởng của Các Mác. “Đầu não” ở đây được hiểu chính là lý luận, là ánh sáng chỉ đường của Đảng; còn bảo vệ “trái tim” của Đảng chính là giữ cho mỗi đảng viên, mỗi người làm cách mạng luôn giữ được sự nhiệt tình, tâm huyết, giữ được động cơ vì cách mạng, nhân dân.
Nhân loại tiến bộ luôn ghi nhận đóng góp vĩ đại của Các Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh... những người đã đặt nền tảng và vận dụng nó vào trong thực tiễn cho sự ra đời của một chế độ nhà nước XHCN tiến bộ, thực sự vì con người. Ngày nay, các nhà lý luận Mác-xít vẫn được đánh giá là những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử loài người.
Năm 1999, Đại học Cambridge (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ, kết quả là Các Mác đứng đầu. Tháng 7-2005, với câu hỏi tương tự, trong một cuộc thăm dò ý kiến của chương trình In Our Time trên kênh Radio 4 của Đài BBC, thính giả vẫn chọn Mác đứng đầu danh sách là nhà tư tưởng ưa thích của họ. Nhiều cuộc khảo sát, đánh giá, các hội thảo lớn giai đoạn hiện nay ở chính các nước tư bản chủ nghĩa vẫn luôn dành cho Mác sự trân trọng bởi những ảnh hưởng to lớn của ông với nhân loại. |
Bài 3: Ứng vạn biến để giữ nền tảng bất biến (tiếp theo và hết)
Giá trị của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với vai trò cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với mỗi cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) và nhân dân Việt Nam đã được chứng minh trong thực tiễn.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần tiếp tục có bước đột phá việc học tập lý luận chính trị (LLCT) trong điều kiện mới. Cùng với đó, phải có những giải pháp căn bản, quyết liệt để việc học LLCT trở thành nhu cầu thiết thân của mỗi người.
Trước thực trạng một bộ phận CB, ĐV lười học LLCT, cùng với việc tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của LLCT, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp để khắc phục tình trạng này. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập LLCT; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Nghị quyết cũng chỉ rõ hạn chế: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho CB, ĐV về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và những hậu quả gây ra”.
Ảnh minh họa / TTXVN |
Trong Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó là phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phải tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của CB, ĐV về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập LLCT, đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân. Trước đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, nghị quyết đã khẳng định: Đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ quan trọng của Ðảng.
Để việc học tập LLCT trở thành tự giác, là nhu cầu tự thân thì mỗi CB, ĐV cần thay đổi nhận thức về nó, tiên quyết là phải xác định được động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Việc học LLCT là trang bị cho chính mình thế giới quan, phương pháp luận khoa học, là cơ sở để mỗi người vận dụng nó trong giải quyết các vấn đề thực tiễn, nhất là trong công việc hằng ngày. Đó là cái chất tiên phong của người đảng viên so với quần chúng. Mục tiêu cao hơn là góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực, phong cách làm việc hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lý luận giúp chúng ta xây dựng niềm tin, thái độ, trách nhiệm, sự nhân văn trong cuộc sống. Học tập, bồi dưỡng lý luận không phải chỉ có mục tiêu duy nhất là lấy bằng cấp để hợp thức, đối phó với tiêu chí đề bạt, bổ nhiệm mà quan trọng hơn là học để làm việc tốt. Ở một góc độ khác, CB, ĐV là những người đem đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu rõ, đồng thời trực tiếp thực hiện và hướng dẫn nhân dân thực hiện. CB, ĐV cũng lại là người báo cáo tình hình thực hiện chủ trương, chính sách của nhân dân với Đảng và Nhà nước, để đề ra chính sách cho đúng, do đó họ phải học LLCT. Để kiến thức lý luận thấm và ngấm, người học phải xây dựng cho mình phương pháp học phù hợp, tránh lối tầm chương trích cú, học thuộc lòng mà không vận dụng gì vào thực tế. Lối tầm chương trích cú, kinh viện càng khiến cho lý luận trở nên khô khan, thiếu thực tế và làm người học chán nản. Chính các nhà lý luận kinh điển cũng không tán thành cách học đó. Học lý luận, nghiên cứu lý luận là phải nắm được tinh thần của lý luận, bản chất của lý luận để vận dụng nó vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Tính lịch sử-cụ thể luôn là điểm then chốt trong phương pháp tiếp cận của LLCT. Bởi theo Các Mác, lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy bắt đầu từ đó; lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, được tổng kết, khái quát từ thực tiễn. Bản thân các nhà lý luận Mác-xít chưa bao giờ coi học thuyết của mình là bất biến mà luôn coi đó là một học thuyết mở cần được bổ sung, phát triển bằng thực tiễn sinh động. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”.
Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt, học tập LLCT là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của CB, ĐV, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT phải luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của chiến lược cán bộ và gắn kết chặt chẽ với các khâu trong công tác cán bộ. Bởi thế, đào tạo LLCT phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ gắn với quy định của Đảng về công tác quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, phân cấp quản lý cán bộ... Tránh hiện tượng giao chỉ tiêu, cử cán bộ đi học LLCT theo kiểu “điền vào chỗ trống” khiến người học không có động lực, không thấy đó là nhu cầu thiết thân mà còn gây tốn kém, lãng phí ngân sách, thời gian, công sức. Trên thực tế, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức tới việc bồi dưỡng LLCT cho đảng viên, có hiện tượng khoán trắng cho cơ quan tham mưu mà thiếu kiểm tra, giám sát. Việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên. Tình trạng bớt thời gian, cắt xén nội dung trong quán triệt, truyền tải nghị quyết của Đảng không hiếm. Điều này đã được Đảng ta chỉ ra. Tuy vậy, những giải pháp để khắc phục ở cơ sở hiện nay là chưa triệt để.
Một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng đó là người truyền lửa (người thầy dạy lý luận, người truyền đạt nghị quyết của Đảng). Thực tế hiện nay việc giảng dạy lý luận ở các nhà trường, việc truyền thụ nghị quyết của các cấp ủy đảng, tổ chức đảng không phải ở đâu cũng chọn lọc được đội ngũ truyền thụ tinh hoa, dẫn đến nhiều nơi hiệu quả thấp. Không phải ai cũng có khả năng đứng trên bục giảng hay truyền tải nghị quyết của Đảng hiệu quả. Người truyền lửa lý luận phải thổi lên được ngọn lửa nhiệt huyết, sự say mê của cả mình và người học, người nghe. Do đó, người truyền lửa phải là người có kiến thức, hiểu biết, có phương pháp truyền thụ, có kỹ năng phân tích, đánh giá, định hướng, dự báo tình hình, biết giải quyết nhuần nhuyễn các vấn đề đang đặt ra giữa lý luận và thực tiễn giúp người học tiếp cận được sát nhất những kiến thức ấy. Điều tiên quyết là bài giảng LLCT phải góp phần giải quyết, lý giải những vấn đề mới, hóc búa từ thực tiễn đặt ra, nhất là việc vận dụng trong giải quyết những công việc cụ thể. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó tạo niềm tin cho người học. Bởi thế, các nhà trường, cơ sở đào tạo có thể nghiên cứu để tăng cường hơn nữa đội ngũ giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có phương pháp truyền thụ tốt tham gia giảng dạy LLCT. Đi liền với yêu cầu lựa chọn người giảng dạy, người truyền đạt LLCT, cũng cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng chế độ, chính sách đãi ngộ xứng đáng, tạo động lực tốt nhất để họ cống hiến. Chế độ, chính sách đối với người giảng dạy, truyền thụ lý luận hiện nay về cơ bản là chưa đủ sức hút để họ chuyên tâm với nghề.
Nhiều cán bộ qua đào tạo LLCT ở các bậc học đã nêu lên một thực trạng, đó là sự trùng lặp nội dung các bậc học, thiếu sự liên thông, tính kế thừa, tính thống nhất giữa các cấp học dẫn đến việc cán bộ phải học nhiều lần một số chuyên đề, học phần. Chương trình đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, kinh viện mà chưa có bổ sung thấu đáo về tính thực tiễn. Đúng như tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế”. Như vậy, phải có nghiên cứu thấu đáo việc đưa chương trình, nội dung vào giảng dạy ở các bậc học. Đây cũng là vấn đề lớn mà Đảng, Nhà nước, hệ thống các cơ sở đào tạo cần quan tâm, tìm ra phương thức hợp lý.