Ngôi chùa do Công ty cao su Việt Lào xây dựng tại tỉnh Champasak, Lào
Lãnh đạo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương và VRG thăm nhà máy chế biến Cao su Việt Lào
Là dự án đầu tiên Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam (VRG) triển khai trồng cây cao su trên đất bạn Lào vào năm 2005, Công ty cao su Việt Lào gầy dựng mọi thứ từ con số 0...
Công nhân khai thác mủ cao-su. |
Ðổi đời nhờ làm công nhân cao-su
Trong những ngày cuối tháng 8, chúng tôi cùng Tiến sĩ Huỳnh Văn Khiết, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc DRI kiêm Chủ tịch Hội đồng tư vấn Công ty DAKLAORUCO sang thăm Dự án trồng cao-su tại bốn tỉnh nam Lào. Ði giữa bạt ngàn cao-su xanh tốt thuộc Nông trường 1 của công ty tại bản Mây, huyện Ba-chiêng, tỉnh Chăm-pa-xắc, Tiến sĩ Huỳnh Văn Khiết không giấu được sự xúc động bởi ông chính là một trong những người đầu tiên lặn lội sang đây tìm đất trồng cao-su. Với tất cả kinh nghiệm sau hơn 30 năm trồng cao-su ở Ðác Lắc, ông đã đem sang đây áp dụng nên chỉ sau tám năm đã biến vùng đất hoang vu thuộc bốn tỉnh nam Lào trở thành vùng đất bạt ngàn cao-su xanh tốt.
Giữa vườn cao-su xanh tốt vươn lên trong nắng sớm, Tiến sĩ Huỳnh Văn Khiết bồi hồi nhớ lại: "Những ngày đầu đặt chân sang đất bạn trồng cao-su, chúng tôi gặp muôn vàn khó khăn, như bà con địa phương thiếu niềm tin ở cây cao-su; đội ngũ cán bộ, kỹ sư công ty phải ăn, nghỉ trong điều kiện rất khó khăn, địa bàn phức tạp, núi rừng hẻo lánh, giao thông hiểm trở, về mùa mưa giao thông có lúc bị cô lập. Ðể đến được những bản làng này cán bộ, nhân viên công ty phải mất vài ngày đường vượt rừng, lội suối... Trong buổi đầu gian lao ấy, nhiệm vụ đặt ra cho cán bộ, nhân viên công ty là làm sao để bà con các bộ tộc Lào trong vùng dự án tin tưởng vào hiệu quả của việc trồng cây cao-su để ủng hộ dự án. Vượt qua muôn vàn khó khăn, từ tuyên truyền, vận động đến giải thích, đưa bà con đi tham quan mô hình trồng cao-su ở Việt Nam... dần dần bà con đã hiểu ra, tin tưởng những gì chúng tôi đang làm và hết lòng, hết sức ủng hộ công ty triển khai dự án. Bên cạnh đó, chúng tôi luôn nhận được sự quan tâm, động viên của Chính phủ, chính quyền các cấp, các ban, ngành nước bạn Lào nên cán bộ, nhân viên công ty hết sức phấn khởi và nỗ lực hết mình dự án mới thành công như ngày hôm nay". Ðến nay công ty đã trồng được hơn 9.000 ha cao-su, trong đó có gần 3.000 ha đã cho khai thác với sản lượng mủ đạt tám tấn/ngày. Ngoài ra, công ty còn trồng được hơn 541 ha điều, 307 ha cà-phê đã cho thu hoạch, năm 2011 sản lượng đạt 160 tấn hạt điều khô và 780 tấn quả cà-phê tươi... Do đặc điểm của các tỉnh nam Lào có nhiều thuận lợi như đất đai chủ yếu là đất đỏ ba-dan màu mỡ, thời tiết ít gió vào mùa khô, mùa mưa kéo dài đến tám tháng trong năm và độ cao trung bình chỉ 250 m so với mặt nước biển... nên cây cao-su sinh trưởng và phát triển tốt, chỉ đến năm thứ sáu đã cho cạo mủ. Năng suất mủ cũng rất cao. Nhà máy chế biến mủ cao-su với công suất 13.000 tấn/năm cũng được xây dựng, trị giá ba triệu USD tại huyện Ba-chiêng, tỉnh Chăm-pa-xắc đã đi vào hoạt động và trong những năm tới, khi toàn bộ diện tích cao-su của dự án đưa vào khai thác, công ty tiếp tục đầu tư xây dựng thêm một nhà máy chế biến mủ cao-su với công suất 10.000 tấn/năm tại khu vực huyện Lao-nam, tỉnh Xa-la-van để chế biến toàn bộ số mủ khai thác được phục vụ xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Phó Giám đốc Công ty DAKLAORUCO Ðinh Huy Chương phấn khởi cho biết: Ðến nay, chúng tôi đã có bốn nông trường, hai đội sản xuất, bốn trạm y tế, một nhà máy chế biến mủ cao-su với đầy đủ cơ sở vật chất khang trang. Xác định nguồn lực chính của công ty là người lao động ở địa phương cho nên thời gian qua, công ty luôn chú trọng đào tạo, mở các khóa huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ trẻ; mở các lớp đào tạo thợ lái máy; kỹ thuật ghép cao-su, thợ cạo mủ cao-su... và tuyển dụng, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động ở địa phương. Hiện công ty có 903 công nhân lao động trực tiếp, trong đó có 655 công nhân người Lào với mức thu nhập từ 1,5 đến hai triệu kíp/người/tháng (tương đương bốn đến năm triệu đồng).
Anh Bun My, 29 tuổi, ở bản Mây, huyện Ba-chiêng, tỉnh Chăm-pa-xắc làm công nhân khai thác đội 2, Nông trường 1 hồ hởi kể: "Trước khi làm công nhân cho Công ty TNHH Cao-su Ðác Lắc, vợ chồng tôi chỉ làm nương rẫy, trồng lúa... không đủ cái ăn, cuộc sống hết sức khó khăn. Từ khi vào làm công nhân của công ty từ năm 2005 đến nay, vợ chồng tôi luôn được các cán bộ, công nhân Việt Nam trong đội và nông trường giúp đỡ, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc vườn cây, khai thác mủ cao-su nên thu nhập luôn ổn định từ 2,5 đến 3 triệu kíp/người/tháng (tương đương sáu đến bảy triệu đồng). Nhờ đó, vợ chồng tôi không chỉ sửa sang được nhà cửa, nuôi con cái học hành chu đáo, mua sắm được xe máy, ti-vi, tủ lạnh... mà mỗi tháng còn tích lũy được hơn hai triệu kíp phòng khi đau ốm và sau này xây dựng nhà mới".
Ông Phây Văn, Trưởng bản Noong Bua, huyện Ba-chiêng, tỉnh Chăm-pa-xắc cho biết: Cả bản có 80 nóc nhà với 93 gia đình, trước đây cuộc sống của bà con trong bản hết sức khó khăn. Bà con chủ yếu làm nông nghiệp nhưng do phong tục, tập quán lạc hậu nên năng suất cây trồng rất thấp; tác phong lao động cũng rất "đủng đỉnh" mỗi ngày chỉ làm vài tiếng đồng hồ nên cái đói, cái nghèo cứ đeo bám mãi. Từ khi Công ty TNHH Cao-su Ðác Lắc triển khai dự án trồng cao-su trên địa bàn, ngoài việc nhận lao động ở địa phương vào làm công nhân, công ty còn đầu tư làm đường giao thông, kéo điện thắp sáng, xây dựng trường học, trạm y tế... cho địa phương nên người dân trong bản hết sức phấn khởi.
Công nhân thi đấu bóng chuyền tại hội thao
Chú trọng thực hiện các chính sách an sinh xã hội
Cùng với triển khai dự án đúng tiến độ và hiệu quả, DAKLAORUCO luôn chú trọng thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người dân trong vùng dự án. Tính đến thời điểm hiện nay, công ty đã đầu tư xây dựng hơn 200 công trình, hạng mục cơ bản trong vùng dự án như trụ sở làm việc, nhà ở cho tập thể cán bộ, công nhân, công trình giao thông nội đồng, hệ thống điện, công trình nước sạch, trường học, trạm y tế... Trong đó, riêng các công trình phúc lợi xã hội cho các bản trong vùng dự án với tổng kinh phí hơn 4,3 tỷ kíp (hơn 11 tỷ đồng). Các công trình đều được xây dựng bảo đảm chất lượng, đưa vào sử dụng hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của công ty và nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, học tập, khám, chữa bệnh của nhân dân trong vùng dự án. Ðiển hình là trong lĩnh vực giáo dục, do các bản làng đều nằm xa trung tâm huyện, nhiều trường học còn tạm bợ, xuống cấp, thiếu cơ sở vật chất phục vụ dạy và học... Vì vậy, từ năm 2007 đến nay, công ty đã đầu tư xây dựng được ba trường tiểu học, trong đó một trường tại bản Mây, huyện Ba-chiêng, tỉnh Chăm-pa-xắc; một trường tại bản Van-kha-nan, huyện Lao-ngam, tỉnh Xa-la-van; hỗ trợ xây dựng trường Hữu nghị Việt kiều tại tỉnh Chăm-pa-xắc, đồng thời hỗ trợ cho nhiều trường học trong vùng dự án xây dựng, sửa chữa nhà làm việc cho ban giám hiệu nhà trường, nhà nội trú cho giáo viên và học sinh, mua sắm bàn ghế, xây dựng thư viện, tường rào... với tổng số tiền hơn 660 triệu kíp (hơn 1,6 tỷ đồng). Ngoài ra, công ty còn cấp tám suất học bổng cho các du học sinh Lào học đại học trong nước và tại Việt Nam; hằng năm vào dịp tổng kết năm học, công ty phối hợp các bản, các trường trong vùng dự án tặng thưởng hàng nghìn suất quà cho giáo viên và các em học sinh nghèo học giỏi, nhằm động viên, khích lệ tinh thần học tập của con em dân bản.
Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng gặp nhiều khó khăn do hầu hết các bản trong vùng dự án đều nằm xa trung tâm y tế huyện hàng chục km, giao thông đi lại hết sức vất vả. Trong khi đó, một số dân tộc ở địa phương còn tồn tại các phong tục, tập quán lạc hậu, chưa biết tự phòng bệnh cho mình và cộng đồng, khi có người đau ốm không đưa đến trạm y tế mà tin vào thầy cúng, thổi bùa... Từ thực tế đó, ngay từ ngày đầu triển khai thực hiện dự án, công ty đã đầu tư xây dựng tại bốn nông trường bốn trạm y tế, mỗi trạm có diện tích rộng gần 200 m2, có hai cán bộ y tế và được trang bị đầy đủ các dụng cụ y tế cũng như các loại thuốc phục vụ khám, chữa bệnh. Cũng như công nhân công ty, người dân địa phương khi đau ốm đến trạm y tế khám, chữa bệnh, đều được cấp phát thuốc miễn phí.
Y sĩ Huỳnh Văn Triệu, phụ trách trạm y tế bản Mây, Nông trường 1, huyện Ba-chiêng cho biết: "Từ khi thành lập vào năm 2005 đến nay, trung bình mỗi năm các cán bộ y tế của trạm khám, chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho hàng nghìn lượt người dân trong vùng dự án với tổng kinh phí 50 triệu kíp/năm (tương đương 125 triệu đồng). Ngoài khám, chữa bệnh tại trạm, cán bộ y tế của trạm thường xuyên xuống các bản làng trong vùng dự án, trong đó có những bản ở xa phải mất vài ngày đường vượt rừng, lội suối mới đến nơi để tư vấn, tuyên truyền, vận động người dân xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, thực hiện tốt công tác vệ sinh, phun hóa chất phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh, cấp phát thuốc cho dân bản...".
Trong những chuyến về các bản làng khám, chữa bệnh, cán bộ các trạm y tế của công ty đã kịp thời phát hiện, cứu sống nhiều người dân trong tình trạng nguy kịch. Cho đến bây giờ, người dân ở bản Noong-pha-hét, huyện Pa-thum-pho-ne, tỉnh Chăm-pa-xắc vẫn nhớ câu chuyện xảy ra vào ngày 16-5-2008. Khi đó có bốn người tên là Peng, Ti, Nọi, Néc bị trúng độc do ăn phải nấm độc hái ở rừng về. Chất độc làm cả bốn người vật vã, nôn mửa, đi ngoài nhiều. Do phong tục tập quán bà con không đưa đến trạm y tế mà mời thầy cúng đến chữa trị để đến khi người bệnh bị tái tím, hơi thở yếu, gia đình nghĩ đã chết nên đem đi chôn. Khi xuống bản, Giám đốc Nông trường 3 kịp thời phát hiện sự việc và điều động nhân viên y tế Trần Thư Trung nhanh chóng đến gia đình tuyên truyền, vận động và đưa về trạm y tế chữa trị. Sau một giờ tích cực chữa trị, các bệnh nhân dần dần phục hồi và năm ngày sau các bệnh nhân trở lại sinh hoạt bình thường.
Ngoài những việc làm thắm đượm nghĩa tình trên, từ tháng 5-2012 đến nay, công ty còn thực hiện chính sách đối với công nhân Lào. Theo đó, hằng tháng ngoài tiền lương, mỗi lao động chính còn được cấp 18 kg gạo cùng đường, muối, bột ngọt, bột giặt mỗi loại một kg, đồng thời mỗi lao động chính có một người ăn theo còn được cấp thêm tám kg gạo, tương đương 25 USD/người/tháng. Tiến sĩ Huỳnh Văn Khiết tâm sự: Việc thực hiện chính sách này nhằm ổn định và nâng cao đời sống của người lao động Lào làm việc cho công ty và gia đình họ, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, giúp người lao động Lào gắn bó lâu dài với công ty và bảo đảm cuộc sống ngay tại quê hương mình.
Sang đất nước Triệu Voi tươi đẹp, được đến thăm những vườn cao-su bạt ngàn xanh tốt, những nhà máy, công trình phúc lợi xã hội, những bản làng của bà con các bộ tộc Lào trong vùng dự án trồng cao-su của DRI, chúng tôi có thể khẳng định dự án không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống của nhân dân các bộ tộc Lào trong vùng dự án, đồng thời tô thắm thêm mối quan hệ mật thiết, son sắt, thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt - Lào.
Từ khi triển khai phát triển cao su ở Lào, các đơn vị thành viên VRG đã tạo công ăn việc làm với thu nhập ổn định cho hàng ngàn lao động địa phương. Đồng thời đóng góp lớn cho ngân sách địa phương và đảm bảo các hoạt động an sinh xã hội. Chúng tôi đã trao đổi với ông Nguyễn Văn Trung – Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Pakse, CHDCND Lào về các dự án phát triển cao su Việt Nam tại đây.
– Ông nhận xét gì về những dự án của VRG đầu tư tại Lào về kinh tế, an sinh xã hội và ngoại giao?
Ông Nguyễn Văn Trung: Tính đến nay, tổng diện tích cao su các đơn vị thành viên Tập đoàn đang quản lý tại Lào là 26.644,66 ha; trong đó, diện tích kinh doanh gần 22.474 ha. Trong tổng số các dự án được VRG đầu tư trồng cao su tại Lào có 3 dự án đầu tư hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao, đó là: Công ty CPCS Việt Lào, Công ty CPCS Quasa Geruco và Công ty CPCS Dầu Tiếng Việt Lào. Tiêu biểu trong đó là dự án của Cao su Việt Lào tại 2 huyện Ba- chiêng, Sa-na-sổm-bun, tỉnh Chăm-pa-sắc với diện tích 10.031,07 ha; sản lượng khai thác hàng năm đạt trên 15.000 tấn; tổng doanh thu 5 năm (2018- 2022) đạt 3.236,7 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm cho hơn 2.600 lao động. Cao su Việt Lào là dự án đầu tiên thuộc VRG đầu tư tại Lào được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới”.
Từ khi triển khai phát triển cao su ở Lào từ năm 2005 đến nay, VRG đã đầu tư xây dựng nhiều công trình an sinh xã hội phục vụ cho người dân trong và quanh vùng dự án; luôn quan tâm hỗ trợ địa phương làm tốt công tác an sinh xã hội, từ thiện, các công trình phúc lợi nhằm phục vụ cho sản xuất, đồng thời phục vụ thiết thực cho người công nhân, nhân dân trong vùng dự án. Xây dựng nhà ở cho công nhân; đường bê tông, đường lô, liên lô, đường cấp phối sỏi đỏ; ủng hộ chính quyền địa phương xây dựng nhà, làng kiểu mẫu, trường học, chùa. Ngoài ra, các dự án cao su đã đóng góp hỗ trợ cho địa phương xây hoặc sửa cầu đường, trường học, chợ, trụ sở làm việc của địa phương… Qua đó, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp, tin cậy giữa doanh nghiệp và cộng đồng, mang đến lợi ích về cơ sở hạ tầng cho vùng dự án và thu nhập ổn định cho lao động địa phương. Thu nhập của NLĐ từng bước được cải thiện, năm sau cao hơn năm trước và đảm bảo các chế độ chính sách, NLĐ an tâm công tác, tin tưởng, gắn bó với các dự án của VRG.
Việc VRG triển khai chương trình đầu tư trồng cao su tại Lào từ năm 2005 là chủ trương và hướng đi đúng đắn góp phần vào việc thành công trên nhiều phương diện: chính trị – ngoại giao, kinh tế – xã hội và vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào.
- Ông vui lòng chia sẻ một số kỷ niệm đáng nhớ của các công ty cao su tại Lào?
Ông Nguyễn Văn Trung: Tôi cho rằng, ấn tượng đáng nhớ nhất là dự án trồng mới 10.000 ha cao su của Công ty CPCS Việt Lào. Đây là dự án đầu tiên VRG triển khai trồng cây cao su trên đất bạn Lào năm 2005, vào thời điểm chưa am hiểu phong tục, tập quán của nhân dân nước sở tại, điều kiện địa lý xa xôi, thời tiết bất lợi, ngôn ngữ bất đồng, cơ sở vật chất từ con số không.
Đơn vị phải làm lán trại ở ngay trong rừng để sinh hoạt và chỉ đạo sản xuất. Cán bộ khung lúc ban đầu chỉ có 10 người, vừa tổ chức cuộc sống, vừa phải đi đến từng bản, từng làng để tìm hiểu phong tục tập quán, gây dựng quan hệ với các già làng, trưởng bản và chính quyền địa phương, tổ chức khai phá đất rừng, chia lô chia khoảnh. Sau đó là những nỗ lực đưa những cây giống tốt từ Việt Nam sang trồng trên mảnh đất đất khô cằn sau chiến tranh của Lào.
Vượt qua những khó khăn đó, dự án đã hoàn thành trước 2 năm. Thành quả hôm nay như đã nêu ở trên là sự công nhận hướng đi đúng đắn của VRG khi triển khai chương trình đầu tư trồng cao su tại Lào và cũng là niềm vinh hạnh, sự tự hào cho những nỗ lực đóng góp của toàn thể CB.CNV LĐ thuộc các dự án cao su mà VRG đã đầu tư thành công tại Lào.
– Ông có nhắn nhủ gì với các công ty thuộc VRG tại Lào trong thời gian tới?
Ông Nguyễn Văn Trung: Nền kinh tế Lào hiện nay dễ bị tổn thương trước các tác động bên ngoài và trong nước gây ra những thách thức như: nợ công, nợ nước ngoài, tỷ giá hối đoái, lạm phát tăng cao làm cho giá nhiên liệu đầu vào tăng cao gây khó khăn cho chuỗi tiêu thụ toàn cầu dẫn đến giá bán mủ cao su giảm sâu, giá cả hàng hóa, xăng dầu tăng cao… Đặc biệt nguồn cung cấp xăng dầu thiếu hụt sẽ tác động không nhỏ đến tình hình SXKD của các doanh nghiệp mà VRG đang đầu tư tại Lào. Ngoài ra, tỷ giá quy đổi Kip sang Việt Nam đồng giảm sâu (trước đây 1.000.000 Kip quy ra được 2.000.000 VNĐ; hiện nay quy ra chỉ được khoảng 1.100.000 VNĐ), tỷ giá Bath Thái/Kip cao nên công nhân Lào có xu hướng qua Thái làm việc dẫn đến thiếu hụt lao động, vì hơn 85% lực lượng lao động của các doanh nghiệp là người dân các bộ tộc Lào (chủ yếu là công nhân khai thác và chế biến mủ).
Đứng trước tình hình khó khăn đó, tôi cho rằng các doanh nghiệp VRG đầu tư tại Lào cần phải tìm ra giải pháp, tập trung tối đa vào việc tiết giảm chi phí, suất đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sản lượng, năng suất chất lượng, có giải pháp đảm bảo thu hút nguồn lao động cho các đơn vị; quan tâm hơn đến các chế độ chính sách đãi ngộ cho CB.CNV LĐ, đặc biệt là NLĐ trực tiếp; tiếp tục duy trì, củng cố quan hệ với chính quyền sở tại để nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ nhằm thực hiện tốt hoạt động SXKD được Tập đoàn giao. Từ đó, giúp hạn chế những rủi ro trong thời gian tới, đưa tình hình SXKD của doanh nghiệp ngày càng ổn định phát triển bền vững.
Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, để triển khai hiệu quả nhiệm vụ chính trị đối ngoại quan trọng trong việc củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, các doanh nghiệp FDI Việt Nam tại khu vực Nam Lào nói chung cũng như các công ty cao su thuộc VRG nói riêng cần tích cực phối hợp, hỗ trợ Tổng lãnh sự quán trong việc triển khai nhiệm vụ, qua đó góp phần củng cố, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa 2 bên, tạo điều kiện cho các dự án đầu tư và doanh nghiệp Việt Nam tại địa bàn ngày một phát triển.
– Trân trọng cảm ơn ông về những nhận xét quý báu nêu trên